Nguồn gốc Hạm đội Hàng không thứ nhất (Hải quân Đế quốc Nhật Bản)

Tàu phóng thủy phi cơ Wakamiya

Năm 1912, Hải quân Hoàng gia Anh đã thành lập nhánh không quân riêng của mình, Royal Naval Air Service (Cục Hàng không Hải quân Hoàng gia). Hải quân Nhật vì dựa mô hình Hải quân Hoàng gia anh nên đã tìm cách thành lập Cục Hàng không Hải quân của riêng họ. Hải quân Nhật cũng đã quan sát sự phát triển kỹ thuật ở các nước khác và thấy tiềm năng quân sự của máy bay. Năm 1913, tàu vận tải Wakamiya  đã được chuyển đổi thành tàu phóng,bảo trì thủy phi cơ và máy bay đã được mua. Hạm đội Hàng không thứ nhất và hải sẽ trở thành lực lượng tấn công chính của Không lực Hải quân Đế quốc Nhật.

Kinh nghiệm sử dụng tàu sân bay của Nhật ngoài khơi Trung Quốc đã giúp phát triển hơn nữa học thuyết tàu sân bay của Hải quân Nhật. Một bài học kinh nghiệm ở Trung Quốc là tầm quan trọng của sự tập trung và khối lượng trong sử dụng không lực quân hải quân lên bờ. Do đó, vào tháng 4 năm 1941, Hải quân Nhật thành lập Hạm đội Hàng không đầu tiên để tập hợp tất cả các tàu sân bay của mình dưới một lệnh duy nhất. Hải quân Nhật tập trung học thuyết của mình vào các cuộc không kích kết hợp các Không đoàn(Kōkūtai) trong các hạm đội tàu sân bay, chứ không phải cá nhân từng tàu sân bay. Khi có nhiều hạm đội tàu sân bay cùng hoạt động, các không đoàn của các hạm đội được kết hợp với nhau. Học thuyết kết hợp,tập hợp của các không đoàn tấn công không quân tàu sân bay này là loại tiên tiến nhất trong số tất cả các hải quân của thế giới. Hải quân Nhật, tuy nhiên, vẫn lo ngại rằng việc tập trung tất cả các tàu sân bay của nó với nhau sẽ khiến họ dễ bị bị xóa sổ ngay lập tức bởi một lục lượng không kích lớn của đối phương hoặc các cuộc tấn công bề mặt. Do đó, Hải quân Nhật đã phát triển một giải pháp thỏa hiệp trong đó các tàu sân bay sẽ hoạt động chặt chẽ với nhau trong các hạm đội tàu sân bay của chúng, nhưng các đơn vị sẽ hoạt động trong các hình chữ nhật không chặt, với khoảng 7.000 mét (7.700 yd) giữa các tàu sân bay với nhau.[1][Note 1]

Mặc dù sự tập trung của nhiều tàu sân bay thành một đơn vị là một khái niệm chiến lược mới mang tính đột phá và cách mạng, Hạm đội Không quân thứ nhất phải chịu một số thiếu sót phòng thủnh như rằng, trong lời nói của sử gia Mark Peattie,nó có một "cái hàm bẳng thủy tinh, nó có thể đấm rất đau nhưng không thể chịu đòn tương đương."[2] Các loại súng phòng không của tàu sân bay Nhật Bản và các hệ thống điều khiển súng liên quan có một số thiếu sót về cách sắp xếp và thiết kế đã hạn chế độ hiệu quả của chúng. Đội tuần tra không quân chiến đấu(CAP) của IJN bao gồm quá ít máy bay chiến đấu và bị kìm hãm bởi một hệ thống cảnh báo sớm không đầy đủ, kể cả việc thiếu radar. Thông tin liên lạc vô tuyến kém với các máy bay chiến đấu ức chế việc ra lệnh và kiểm soát hiệu quả CAP. Các tàu chiến hộ tống của các tàu sân bay được triển khai như là trinh sát trực quan trong một vòng ở tầm xa, không phải là tàu hộ tống chống máy bay gần, vì họ thiếu huấn luyện, học thuyết và đủ súng phòng không. Những thiếu sót này cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết của Kaga và các tàu sân bay khác Không Hạm đội 1.[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hạm đội Hàng không thứ nhất (Hải quân Đế quốc Nhật Bản) http://www.combinedfleet.com/Akagi.htm http://www.combinedfleet.com/Zuiho.htm http://www.combinedfleet.com/Zuikak.htm http://www.combinedfleet.com/cvlist.htm http://www.combinedfleet.com/hiryu.htm http://www.combinedfleet.com/kaga.htm http://www.combinedfleet.com/ryujo.htm http://www.combinedfleet.com/shoho.htm http://www.combinedfleet.com/shokaku.htm http://www.combinedfleet.com/soryu.htm